Thứ hai 17/02/2020
Thiên can tàng ẩn trong Địa Chi
Hiểu rõ được Thiên can tàng ẩn trong Địa CHi sẽ giúp Bạn tiến thêm thêm 1 bước trong sự học Bát tự Dụng thần
Thiên can được chứa bên trong Tý Thủy và Quý Thủy. Quý Thủy lâm quan ở Tý.
Thiên can được chứa bên trong Sửu Thổ là Quý Thủy, Tân Kim, Kỷ Thổ. Quý Thủy quan đới ở Sửu. Tân Kim, Kỷ Thổ mộ khố ở Sửu.
Thiên can được ẩn tàng bên trong Dần Mộc là Giáp Mộc, Bính Hỏa, Mậu Thổ. Bính Hỏa, Mậu Thổ trường sinh ở Dần, Giáp Mộc lâm quan ở Dần.
Thiên can đươc ẩn tàng bên trong Mão Mộc là Ất Mộc. Ất Mộc lâm quan ở Mão.
Thiên can ẩn tàng bên trong Thìn Thổ lầ Ất Mộc, Mậu Thổ, Quý Thủy. Ất Mộc, Mậu Thổ quan đới tại Thìn, Qúy Thủy mộ khổ ở Thìn.
Thiên can được ẩn tàng trong Tỵ Hỏa là Canh Kim, Bình Hỏa, Mậu Thổ. Canh Kim trường sinh ở Tỵ, Bính Hỏa, Mậu Thổ lâm quan ở Tỵ.
Thiên can được ẩn tàng bên trong Ngọ Hỏa là Đinh Hỏa, Kỷ Thổ. Đinh Hỏa, Kỷ Thổ lâm quan ở Ngọ.
Thiên can được ẩn tàng bên trong Ngọ Hỏa là Đinh Hỏa, Kỷ Thổ. Đinh Hỏa, Kỷ Thổ lâm quan ở Ngọ.
Thiên can ẩn tàng bên trong Mùi Thổ là Ất Mộc, Kỷ Thổ, Đinh Hoả. Kỷ Thổ, Đinh Hỏa quan đới ở Mùi, Ất Mộc mộ khố ở Mùi.
Thiên can được ẩn tàng trong Thân Kim là Mậu Thổ, Canh Kim, Nhâm Thủy. ở Thân, Nhâm Thủy trường sinh, Canh Kim lâm quan, Mậu Thổ bệnh.
Thiên can ẩn tàng trong Dậu Kim là Tân Kim. Tân Kim lâm quan ở Dậu.
Thiên can ẩn tàng trong của Tuất Thổ là Tân Kim, Đinh Hỏa, Mậu Thổ. Ở Tuất, Tân Kim quan đới, Đinh Hỏa và Mậu Thổ mộ khố.
Thiên can ẩn tàng trong của Hợi Thủy là Giáp Mộc, Nhâm Thủy. Giáp Mộc trường sinh tại Hợi, Nhâm Thủy lâm quan ở Hợi.
CÁCH AN KHÔI VIỆT CHO THẬP CAN:
_ TUỔI GIÁP:
+ mộc dương tại thiên vi lôi, tại địa vi cây mộc lớn tràng sinh tại hợi thủy đến cung sửu tàng can nhâm thủy nên gặp được nguyên thần được thêm sinh khí có đất dụng võ nên khởi sao thiên khôi tại sửu.
+ can giáp đến cung mùi thì gặp can kỷ tàng ở đó mà hóa hợp đắc vị nên can giáp khởi thiên việt tại mùi vậy!
_ TUỔI MẬU:
+ thổ dương tại thiên vi thạch, tại địa vi sơn thổ đến cung mùi tàng can đinh hỏa , tàng kỷ thổ vừa được tương trợ được nguyên thần mà sinh thành khí chất, vững vàng nên an thiên việt tại mùi
+ can mậu đến cung sửu gặp can tàng là quý nên hóa hợp thành hỏa mà dưỡng khí mà đắc vị nên an thiên khôi tại sửu!
_ TUỔI BÍNH:
+ can bính tại thiên vi nhật, tại địa vi lửa trong lò đến hợi cung gặp giáp mộc ẩn tàng nguyên thần để sinh nên hợp vị nên khỏi thiên khôi tại hợi vậy!
+ can bính đến cung dậu nơi tàng can tân mà hóa hợp thành thủy mà đắc vị nên khởi thiên việt tại dậu vậy.
_ TUỔI ĐINH:
+ can đinh tại thiên vi ánh sáng tinh liệt,tại điạ vi hỏa ngon đèn vi được sinh tại cung dậu nơi có tứ âm chi quyền nên đinh hỏa mới có phát quang được sinh vậy nên khởi sao thiên việt tại dậu
+ can đinh đến cung hợi tàng can nhâm mà hóa hợp hóa mộc mà đắc vị chẳng tận diệt mà an sao thiên khôi vậy.
_ TUỔI ẤT:
+ can ất mộc tại thiên vi phong, tại địa vi hoa cả cây nhỏ âm đến cung tý hựu nhất dương chi sinh nơi tàng can nhâm thủy lại ất nạp tại khôn quẻ mà sinh dưỡng phục tề chi trí nên can ất được khởi thiên khôi tại tý
+ can ất đến cung thân thì gặp can canh tàng ẩn mà hóa hợp thành kim chí khí thân nại là nơi khởi tràng sinh của thổ kỳ thực lấy đó mà dụng trí nghĩa do đó khởi thiên việt tại thân là thế
_ TUỔI KỶ:
+ can kỷ tại thiên vi khí, tại địa vi chân thổ khác với mậu thổ dương tại địa vi sơn. khí âm trọc giáng xuống vi địa theo thuyết tại thiên thành tượng tại địa thành hình nơi của quẻ khôn tại cung tý nên kỷ thổ tụ dưỡng( thủy bồi sa thổ) mà thành thổ tại tý vậy nên an thiên khôi tại tý.
+ can kỷ đến cung thân thì gặp khôn quẻ chi tượng cũng là nơi khởi tràng sinh của thổ nơi dụng lấy đức hạnh mà vạn vật sinh hĩ.
_ TUỔI NHÂM:
+ can nhâm tại thiên vi vân, tại địa vi ao, hồ. mừng được gặp dương thổ mậu (vi sơn, vi thạch) án ngăn mà tích tụ sinh dưỡng mà không bị tán, hao vi thành ao, đầm, trạch, kỵ gặp kỷ thổ âm mà bị hút, tán hao vậy nên nhâm đến cung tỵ gặp can mậu tàng ở tỵ mà thủy nhâm không bị lan tràn tạo thành ao hồ chí chi. do can nhâm an thiên việt tại tị.
+ can nhâm đến cung mão thì gặp can tàng ất vi mộc hóa rừng ất phá kỷ thổ, ất lại hợp canh hóa kim, kim lại sinh thủy vì vậy mà nhâm gặp được nguyên thần lại không bị kỷ thổ hút, không bị hao tán là vậy nên an sao thiên khôi.
_ TUỔI QUÝ:
+ can quý thủy âm tại thiên vi vũ (mưa) tại địa vi tuyền mạch ( nước ngầm) đến cung mão thì gặp can ất tàng ất mộc vi rừng phá kỷ thổ âm mà nước mua được ngấm xuống đất thổ để thủy quý có thể tích thành mạch nước ngầm vật lấy đó mà tu dưỡng sinh sôi nên can quý đến mão được gặp hữu dụng mà sinh vậy nên an thiên khôi tại mão.
+ can quý đến cung tị gặp can mậu tàng mà hóa hợp thành hỏa do đó mà toại ý phát năng dụng vậy vì thế mà an sao thiên việt tại tị vậy.
_ TUỔI TÂN:
+ can tân kim âm tại địa vi khoáng vật, ngũ kim hỉ được gặp kỷ thổ sinh tại cung ngọ tàng can kỷ nên tân kim đến ngọ mà được sinh trợ rèn rữa vậy vạn vật chuyển hóa vì thế an sao thiên khôi tại ngọ là thế.
+ can tân đến cung dần thì gặp can bính tàng tại dần mà hóa hợp thành thủy mà thỏa chí tang bồng.
_ TUỔI CANH
+ can canh kim dương tại thiên vi phong sương, tại đại vi kim thiết ( kim rèn rữa, cứng rắn) hỉ gặp được mậu dương thổ sinh đến dần tàng mậu thổ mà can canh được gặp nguyên thần mà bổ khí vậy nên an sao thiên việt tại dần là thế.
+ can canh đến cung ngọ, ngọ tàng can kỷ thổ hợp giáp hóa thổ vừa sinh dưỡng, mà ngọ là ly hỏa rèn luyện mà canh kim thành kim khí sắc bén cũng là chỗ đắc dụng, tôi luyện mà hợp vị nên an sao thiên khôi tại ngọ
nói đến đây chắc sẽ ít người hiểu vì phải hiểu sâu về thập can, về nạp giáp pháp về tàng can, về chết hóa, về hóa hợp. có người sẽ hỏi tại sao can canh không khởi ở sửu mùi vì tại cung mùi tàng can ất có thể hóa hợp cùng canh rùi can sửu cũng tàng can kỷ hợp với giáp để hóa thổ có thể sinh cho canh? xin trả lời rằng nếu lấy ý đó thì ta sẽ thấy rằng mùi là mộ khố của mộc, sửu là mộ khố của kim, dù có hợp sinh tại đó thì can canh kim sao có thể vùng vẫy, sao có thể cho là gặp thời khi đứng tại nơi mộ khố sửu cho được? đó là lý do tại sao an khôi việt cho tuổi canh tại dần ngọ là thế.
Nếu để ý thì khôi việt toàn được an tại nơi, toàn tìm chỗ "tìm cái sống tại nơi chết tử tuyệt" vậy và an tại nơi có thể hóa hợp mà biến hóa thích nghi với môi trường mới. chính vì thế khôi việt biểu cho tính sáng suốt, thông minh, mưu trí, thức thường và nghị lực phẩm chất, đạo đức, tố chất rồi rào, mãnh liệt như tàng long ngọa hổ, ý trí bất khuất quật cường vậy. Đó là cái tính cát vĩnh hằng là giá trị đầy nhân văn!
Tác giả: Admin | Đã xem: 6070